Từ Thức Tiên Hôn Lục
The Land of Bliss – A sixteenth century Vietnamese Tale
(English below)
Từ Thức Tiên Hôn Lục – tạm dịch là Từ Thức cưới vợ tiên – là một tác phẩm trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ thời Lê Sơ, kể về một nho sinh vô tình lạc vào tiên giới, đến khi quay về cõi trần thì thế giới chàng biết đã thay đổi nhiều.
Là một tác phẩm mang nhiều ý nghĩa trong kho tàng văn chương Việt Nam, song ít được người nay biết đến. Nhóm Đại Việt Cổ Phong nhân đây xin được giới thiệu câu chuyện này đến đông đảo bạn đọc.
Từ Thức gặp Giáng Hương. Minh Hoạ bởi Ngô Quang Thiên
Vào những năm Quang Thái đời vua Trần Thuận Tông có một viên quan trẻ tuổi tên là Từ Thức. Từ Thức là người học thức uyên bác lại có phụ thân làm đến đại thần nên được bổ nhiệm làm quan Tri huyện Tiên Du.
Chàng Từ Thức ham thích việc học hỏi, trong nhà lại sưu tầm được nhiều sách quý, thế nhưng những thứ kiến thức đó không đủ để thỏa mãn một ước mong duy nhất. Từ nhỏ Từ Thức đã được nghe kể chuyện vua Đường Minh Hoàng lạc vào cảnh tiên vào một đêm rằm tháng tám. Nơi tiên cảnh ấy nhà vua đã gặp những vị tiên nữ tuyệt sắc với làn da hồng đào. Tiên nữ mặc những bộ váy áo tay rộng rất lộng lẫy, thướt tha bằng thứ màu cầu vồng bảy sắc. Nơi tiên cảnh ấy tràn ngập tiếng cười của niềm hạnh phúc và niềm vui dường như bất tận, tiên nữ say sưa ca hát và nhảy múa suốt ngày trong tiếng nhạc trời du dương, réo rắt. Đến khi nhà vua rời khỏi chốn tiên, nhà vua đã mang vũ khúc Nghê Thường về dạy cho các cung nữ. Rồi từ đó về sau vũ khúc này được lưu truyền trong cung cấm, nhà vua vừa uống rượu vừa say sưa ngắm nhìn cung nữ ca múa mỗi dịp trăng tròn. Về chàng Từ Thức, kể từ lúc được nghe câu chuyện về vùng đất của các vị tiên nga, chàng chỉ ước mong một ngày tìm cho được chốn đó.
Cạnh huyện Tiên Du có một ngôi chùa rất nổi tiếng. Trong sân chùa trồng một cây mẫu đơn rất quý, hễ đến kỳ hoa nở là mọi người nô nức cùng nhau đến thưởng hoa rất đông. Trở thành một đám hội thưởng hoa tưng bừng, nhộn nhịp. Trong đám đông có một cô gái độ chừng mười lăm, mười sáu son phấn điểm nhẹ, nhan sắc tuyệt trần cũng đến xem hoa. Vì muốn xem cho rõ một cành hoa mà cô gái lỡ tay làm gãy cành mà bị người coi hoa trong chùa bắt vạ. Nhưng không may, cô lại không có tiền đền cho nhà chùa nên bị giữ lại đến ngày đã sắp tối mà chưa ai đến chuộc. Từ Thức có mặt trong hội thấy vậy động lòng thương, mới cởi áo gấm đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người ở đó đều lấy lòng cảm phục Từ Thức là một vị quan hiền đức, nhân hậu.
Thế nhưng, Từ Thức vốn bản tính hay rượu, ngày thích khảy đàn, ngâm thơ vịnh cảnh, vui thú thiên nhiên nên việc quan trường thường bỏ luống hay bị quan trên trách phạt. Cứ như thế đến vài năm sau, Từ Thức chán nản quan trường, lại ngán ngẩm cái vòng danh lợi trần gian quẫn quanh không dừng, chàng treo ấn từ quan mà trở về với non xanh nước ngọc. Chàng chọn nơi Tống Sơn vốn nơi chàng ưu thích phong cảnh mà dựng nhà ở lại. Ngày ngày chàng vui cảnh thăm thú thiên nhiên. Chàng thường cùng tiểu đồng mang theo bầu rượu với cây đàn, hễ đến nơi nào thích cảnh thì dừng chân nhâm nhi hớp rượu. Từ Thức ngao du khắp các cánh rừng, cây cối xanh tươi, cành lá đan vào nhau rợp bóng mát, chim trên cành hót véo von. Chàng vừa đi vừa ngâm thơ vịnh cảnh đẹp thiên nhiên. Không cảnh nước tú non kỳ, rừng xanh, cửa bể nào mà thiếu dấu chân của Từ Thức cả. Chàng đi qua núi Chích Trợ, song Lãi, cửa Nga, động Lục Vân và khắp vùng Hóa Châu tươi đẹp.
Một buổi sáng nọ, trời trong xanh với những áng mây trắng ngà nhè nhẹ bay. Từ Thức đi dạo ra cửa sông Thần Phù, nhìn ra xa xa thấy từng đám mây ngũ sắc quẫn quanh kết lại thành hình như một đóa sen, bị mê hoặc bởi cảnh dị thường bèn chèo thuyền ra để chiêm ngưỡng. Khi Từ Thức đến nơi thì thấy rõ một ngọn núi như lơ lửng trên mặt biển, khói sương mờ ảo, hoa cỏ mơn mởn xanh tươi. Nữa tin nữa ngờ Từ Thức neo thuyền lại rồi bước lên bờ, quả nhiên là một ngọn núi thật lại tựa như tiên cảnh bồng lai. Từ Thức tức cảnh đề một bài thơ rằng:
Triêu dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nên nổi thuyền câu rượu một bình.
Bến Vũ chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào chỉ hộ lối loanh quanh.
Vừa dứt lời thơ, thì bỗng đâu từ vách núi nứt ra một khe đá, từ trong đấy vang vọng ra những âm thanh xào xạc hệt như lời mời gọi. Từ Thức bước vào khe đá đi được vài bước thì cửa hang đóng lại, mọi thứ chìm vào bóng tối mịt mờ. Từ Thức lo sợ tưởng rằng lần này ắt là chẳng lành, nhưng cũng mon men theo vách đá mà đi. Đường trong hang quanh co uốn khúc, có lúc nhỏ đến độ Từ Thức phải khom người bò qua mới lọt. Càng đi đường lại càng rộng ra, đến một lúc lâu sau Từ Thức thấy một vầng sáng rọi ở phía trên đầu. Chàng men theo gờ đá mà leo lên theo phía ánh sáng vàng ấy.
Lên đến nơi thì bầu trời sáng sủa, hương hoa thơm ngát, chàng choáng ngợp trước thành quách nguy nga và khung cảnh lạ thường mà chàng chưa từng thấy. Dưới chân chàng là cỏ xanh tươi với những thứ hoa xinh xắn như thần mùa xuân trãi thảm đón bước chân chàng. Cạnh đó là một cái hồ nước lấp lánh với cá vàng cá bạc đang bơi lội tung tăng. Một cây cầu bằng cẩm thạch bắt ngang qua hồ dẫn vào một khu vườn còn diệu kỳ hơn nữa. Từng nhóm thiếu nữ đang nhảy múa trong thứ âm thanh êm dịu, những con công trắng đang xòe đuôi múa giữa khóm hoa lấp lánh như ánh sao. Trên cành canh dường như bằng bạc, những loài chim quý hiếm đang cất cao giọng hót du dương. Từ Thức ngây người như lạc vào cõi mộng. Nhưng có tiếng người nói chuyện đưa chàng trở về hiện thực. Từ một cánh cổng sơn son có hai người con gái mặc áo màu xanh, tóc tai lấp lánh như được điểm tô bằng những vì sao cất lời bảo nhau rằng:
– Ôi chàng rể nhà ta đã đến!
Rồi hai nàng thiếu nữ áo xanh vội quay gót vào trong báo tin. Một lúc sau, hai thiếu nữ trở lại và mời Từ Thức vào trong. Từ Thức lúc này lòng hoang mang không biết là phúc hay họa, đi được một đoạn thì vào đến một tòa cung điện, trên có treo hai bức hoành phi chữ vàng: Quỳnh Hư Chi Điện và Giao Quang Chi Các. Nơi đây huy hoàng tráng lệ, màn che khắp các khung cửa bằng vàng bên cạnh dãy tường gấm cao vút. Trên gác vàng có một phu nhân mặc áo lụa trắng đang ngồi trên cái sập thất bảo lấp lánh. Phu nhân ra hiệu mời Từ Thức ngồi trên ghế gỗ đàn hương đặt bên cạnh và cất lời:
– Chàng là người học rộng, hiểu nhiều vậy có biết được đây là đâu chăng?
Từ Thức kính cẩn thưa rằng:
– Thưa phu nhân, tôi quả đã được đọc nhiều sách, đã thăm thú được nhiều nơi. Nhưng tôi chưa bao giờ dám nghĩ là mình sẽ đến được chốn nào có cảnh trí tuyệt đẹp như chốn này. Xin phu nhân hãy cho tôi được biết đây là đâu?
Phu nhân cười mà bảo rằng:
– Chàng là người phàm còn mắc vướng bụi trần thì làm sao mà biết được chốn này. Đây là một trong ba mươi sáu tiên động tên gọi Phi Lai, chốn đây bồng bềnh trên bể cả, không bám vào đất nào. Ta là Nam Nhạc địa tiên, tên gọi Ngụy phu phân. Vì thấy chàng là người có tấm lòng thuần lương, lại nhân nghĩa ra tay cứu giúp người trong lúc khó nguy, nên ta mới dẫn lối cho chàng đến đây.
Nói đoạn, phu nhân ra hiệu cho các hầu nữ vén rèm để một người thiếu nữ bước ra. Nàng xinh đẹp yêu kiều, Từ Thức vừa nhìn đã nhận ra ngay là người con gái đã gặp ở sân chùa.
Phu nhân giới thiệu:
– Đây là con gái ta, tên gọi Giáng Hương. Ngày trước ở hội mẫu đơn không may gặp nạn nhờ chàng cứu giúp. Ơn của chàng ta đây không quên, nay muốn kết duyên Giáng Hương cho chàng để báo ân trước.
Ngay trong hôm đó, trong điện giăng đèn kết hoa, màn nhung thảm ngọc để hai người làm lễ phu thê. Ngày hôm sau, quần tiên đến để chúc mừng cho Tiên chủ núi Phù Lai có chàng rể quý. Suốt những ngày tháng sau đó,trong núi tiếng nhạc tưng bừng réo rắc làm tươi thêm vùng tiên cảnh. Quanh năm khí hậu ôn hòa, cảnh vật tốt tươi, trăm hoa đua nở, chim hót du dương cứ như rằng mùa xuân là vĩnh cửu chiếm trọn thời gian. Từ Thức cùng Giáng Hương ngày ngày vui vẻ dạo chơi. Trong vườn đặt những bức bình phong trắng để Từ Thức cao hứng thì đề thơ lên đó. Không lâu sau thì khắp nơi đều lưu lại bút tích của chàng. Giữa chốn thiên thai, lại có tiên nữ Giáng Hương sớm hôm kề cận Từ Thức ngỡ như là giấc mộng hoàng hoa không ngày kết thúc.
Kể từ lúc bỏ nhà đi thắm thoát đã khá lâu, đêm đêm nằm nghe tiếng sóng vỗ, Từ Thức rộn lên nỗi nhớ cố hương da diết. Nhiều đêm chàng đi dọc bãi biển mà trong ngóng về phương xa. Một buổi sáng nọ, nhìn ra mặt bể mênh mông một màu xanh thẳm, thấy một con thuyền buôn dong buồm về phương Nam, Từ Thức chỉ Giáng Hương mà nói rằng:
– Nhà tôi đi về phía kia kìa, theo hướng con thuyền đó, nhưng bể cả trùng khơi, xanh biếc mênh mông chẳng biết là ở tận đâu.
Nhân một hôm khác lúc rỗi rãi Từ Thức mới bảo cùng Giáng Hương:
– Tôi một thân một mình đến đây, lòng quê bịn rịn không khỏi chạnh lòng, xin nàng nể tình tôi mà cho tôi được tạm về thăm chốn cũ, không biết nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương nghe xong lời liền ngập ngừng, hai mắt ngấn lệ nghĩ đến cuộc chia xa. Từ Thức bèn nói :
– Tôi đi chỉ đôi ba hôm thu xếp xong chuyện nhà, lại thăm cố nhân, tôi hứa sẽ quay lại để cùng nàng bạc đầu nơi cảnh non bồng này.
Hay được tin chàng Từ Thức muốn trở về thăm nhà cũ, phu nhân mới khuyên Giáng Hương rằng:
– Tuy tình nghĩa phu thê gắn kết, nhưng cũng không thể vì tình riêng mà ngăn cản tấm lòng thương nhớ cố hương của chàng được. Bằng không giữ được thân chàng ở đây nhưng lòng cũng đã về tận nơi xưa chốn cũ.
Giáng Hương nghe lời ấy xong liền nói:
– Thiếp chẳng dám vì mối tình phu phụ và ngăn cản lòng chàng, song cõi trần gian nhỏ hẹp, vật đổi sao dời e là cảnh xưa thay khác, không còn được như trước nữa.
Phu nhân sai người chuẩn bị cho chàng một cổ xe kết bằng mây trắng để chàng trở về nhà. Trước khi đi Giáng Hương viết mấy dòng chữ trong khăn lụa rồi bảo Từ Thức rằng:
– Ngày khác nhìn thấy vật này, xin chàng đừng quên mối tình ngày cũ. Nói xong hai hàng lệ tràn tiễn biệt Từ Thức ra về.
Từ Thức lên xe, trông thoáng chốc đã thấy cảnh núi non hiện ra. Thế nhưng mọi thứ đổi thay, nhà cửa ruộng vườn không còn như trước. Duy chỉ có khe núi nơi chàng dạo chơi là còn nguyên cảnh núi xanh mây trắng. Trên đường đi vào làng Từ Thức không còn nhận ra được cảnh vật xung quanh, ai ai cũng xa lạ. Chàng bèn đem tên họ của mình hỏi thăm những người già cả thì có người cho hay:
– Lúc còn nhỏ tôi có nghe kể về cụ cố nhà tôi cũng có tên là Từ Thức làm tri huyện Tiên Du. Nhưng sau đó, ông cụ từ quan rồi ngao du ra cửa bể mà không thấy trở về. Chuyện cách đây đã ngót trăm năm, vào cuối triều nhà Trần, nay đã là năm Diên Ninh thứ ba của của nhà Lê rồi.
– Thưa cụ, cụ làm ơn chỉ cho tôi nơi nếp nhà cũ của Từ Thức khi xưa đã ở giờ tại nơi nào? Từ Thức lên tiếng thưa với cụ già.
Ông cụ dẫn chàng đến một khu đất hoang toàn đến nỗi không còn gì để chàng có thể nhận ra được. Xung quanh cỏ mọc um tùm, phía trong là một túp lều xiêu vẹo gần đổ sụp. Từ Thức trong lòng bùi ngùi xúc động, lại thêm bội phần thất vọng ê chề. Chàng đã mong đợi được về thăm lại người xưa cảnh cũ, nhưng bạn bè đều đã mất hết, người đời lại ngơ ngác không biết chàng là ai, Từ Thức buồn bã muốn trở về núi tiên. Chàng vội tìm chiếc xe mây đã đưa mình về, nhưng nó đã hoá thành chim loan bay mất.
Từ Thức nhớ lại bức thư của Giáng Hương vội lấy ra đọc thì thấy có mấy câu:
“Kết lứa phượng trong mây,
Nay duyên xưa đã tận,
Non tiên trên biển lớn,
Khó có ngày trùng lai”
Từ Thức lúc này mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt.
Cuối cùng Từ Thức tha thẩn đi về phía Hoành Sơn rồi mãi không thấy về. Không ai biết là chàng đã được trở lại tiên cảnh hay đã mất tích trong khe núi nào.
Nguyên tác chữ Hán bởi Nguyễn Dư
Dịch và viết bởi Mai Duy Linh
Tranh minh hoạ bởi Ngô Quang Thiên
More than five hundred years ago, during the reign of Emperor Trần Thuận Tông, lived a mandarin by the name of Từ Thức. Born in the province of Thanh Hoa, he was appointed to govern the district of Tien Du. Near his residence was an old temple, famous for magnificent peony shrub which grew in its grounds. Whenever the shrub flowered it drew a crowd of pilgrims, so each spring there was a festival.
In the second month of the year Binh Ti (A.D. 1396), in the middle of the festival, along came a girl of fifteen or sixteen, serenely beautiful. Bending down a young branch to admire a flower, she broke it off. The crowd would not let her go. Already night was falling and no relative had appeared to pay damages to the pagoda and take the young girl home, when Tu Thuc happened to pass by by. As soon as he learned what had happened, he took off his brocade robe and offered it in exchange for the girl’s freedom.
From that day on, everybody praised the mandarin’s kindness.
Unfortunately, Tu Thuc liked only music, wine, poetry, and nature. He neglected his official duties and was often reprimanded by his superiors.
At last, he thought sadly: “I simply can’t, for a few bushels of rice as my only salary, remain forever chained on the Wheel of honours and intrigues. Why not trust my life on one thin oar which will take me off to limpid waters and blue mountains? In that way I won’t betray the secret desire of my own heart.”
In all the excursions that his sample leisure permitted to make, a child followed him, carrying a gourd of wine, a guitar and a book of poems. When he arrived at a spot he liked, he would sit down to drink and play the guitar. He sought out In all the excursions that his sample leisure permitted to make, a child followed him, carrying a gourd of wine, a guitar and a book of poems. When he arrived at a spot he liked, he would sit down to drink and play the guitar. He sought out strange and picturesque spots. Chopstick Mountain, Green Cloud Grotto, the Lai River, the Nga Estuary – he visited them all and sang their praises in his poems.
One morning, having got up before dawn, Thuc saw, a few miles away, coming from the sea, five clouds of different colours which spread quickly and took the form of a lotus flower. He had himself rowed toward them in a boat. Then he saw a superb mountain. He stopped the boat, and climbed up the mountain. Bluish mists covered it to a dizzy height.
Inspired by the beauty of the spot, Tu Thuc wrote these lines:
In the high branches tremble a thousand reflections;
The grotto’s flowers welcome the entering guest.
Near the spring, where then is the herb-gatherer?
Around the fountain, only the boatman with his oar.
The sea is wide and cool, the guitar sings two notes,
The boat glides carefree along, the gourd is full of wine.
Why not ask the fishermen from Vo Lang –
Where are the peach trees of the Village of the Immortals?
After writing his poem, Tu Thuc admired the view for a long time, then regretfully turned back his boat and slowly tore himself away.
Suddenly, he saw the mountainside open up as if inviting him to enter. He went into the opening. Soon it became completely dark: the mountain had shut behind him. Nevertheless he continued to feel his way long, his hand never leaving the mossy side of the grotto. The path was winding and narrow; at last he saw a gleam of light. He looked up and saw above him some very peaks. Clinging to the rough rocks, he climbed up without difficulty, and gradually the path grew wider.
When he reached the top, the air was clear and a gentle radiant sun was shining. On all sides were richly decorated palaces, pleasant green trees, like a place of pilgrimage.
He was enjoying this enchantment when attention was drawn by two young servant girls dressed in blue. One was saying to the other: “Here is our young bridegroom already.”
The disappeared into the palace to announce his arrival, then came back and bowed before him. “Please enter, my lord.”
Tu Thuc followed the two girls. He saw brocade-covered walls, red lacquered doors, forbidden apartness resplendent in silver and gold, on which he read “Jade Heaven” and “Light of Jewels.”
Upstairs was a fairy dressed in white silk, who invited him to sit down in an armchair of white sandalwood. Then she said to him, “You like picturesque spots so much; do you know where you are now? And do you remember a certain predestined meeting?”
Tu Thuc replied: “It is true that as a faithful lover of lakes and rivers, I have wandered far and near, but I didn’t know that there existed here a country fit for the Immortals. A simple leisure-loving mortal, I go where my feet carry me, knowing nothing of my destiny. Might I dare ask you to enlighten me?”
The fairy smiled. “How could you have known this place before?” she said. “You are in the sixth of the the thirty-six grottoes of Phi Lai Mountain. This mountain sails all the seas, without touching land anywhere. Born of clouds and rain, it appears and vanishes according to the winds. I am the fairy of Nam Nhac Mountain and my name is Nguy. I know the nobility of your name and the worth of your soul; that is why I have welcomed you here.”
She turned toward her servants, who understood her wordless order and withdrew: shortly afterwards, a young girl came in. Tu Thuc, discreetly raising his eyes, recognized the girl who one day had broken the flowering branch.
The fairy went on: “My daughter is called Giang Huong – Rosy Incense. When she went down to the flower festival a misfortune befell her. It was you who save her. I have never forgotten that priceless act of kindness and I now allow her to link her life with yours to repay her debt of gratitude.”
The fairies from all the grottoes were invited to the wedding, which was celebrated with music and singing.
The days sped by like a flying shuttle and Tu Thuc soon realized that he had spent a year in the fairies’ kingdom. He was overcome by nostalgia.
Often in the evening, he would stand motionless until the night grew fresh with the falling dew. The breeze went by, waves spent themselves at his feet and he could sleep. The young gentle night fanned his calm sadness. The moonlight bathing the lofty mountains left him unmoved. At times, the distant sound of a flute suddenly melted his heart and kept him awake till dawn. The he would strive to hear, as of old, the cocks crowing in his village.
One day, looking towards the south, he saw a boat on the sea. Pointing to it, he said: “It’s going towards my own country. It’s a long way away and I don’t know exactly where it is, but it’s over there.”
Finally, he confided in Giang Huong, “You know I only went off for a morning’s stroll and I have already been away a very long time. It is difficult to forget completely the human feelings in one’s heart and you can see that I am still thinking too much of my old village. Do you think I might go home for a little while?”
Giang Huong seemed to hesitate at the thought of parting. Tu Thuc insisted. “It will only be a matter of days, or months at most. Let me see my family and my friends. It will all be over quickly and I will come back up here without delay.” Giang Huong replied weeping, “I don’t dare put forward our love to oppose my husband’s wishes, only the limits of the world below are narrow. Its days and its months are very short. I am afraid it will not look as familiar as of old.”
She went to tell everything to the Queen Fairy, who expressed her regrets. “I didn’t think, though that he would be tied to the Wolrd of Pink Dust. Let him go…Why all this grief?”
At the moment of parting, Giang Huong dried her tears and gave Tu Thuc a letter written on a piece of silk. She asked him not to open it until he arrived home.
He got into the chariot and in a moment found himself home again.
Everything seemed different from what he had known before, the countryside, houses and the people. All that had remained the same were the banks of the mountain spring. He spoke to the old men of the village and told them who he was. Finally, one of them remembered: “When I was a small child,” he said, “I heard that my grandfather bore that name. One day, more than eighty years ago, he went into the mountains and never came back. I think he must have fallen into some gorge. That was at the end of the Tran dynasty and now we are under the fourth of the Le king.”
Feeling lonely and sad, Tu Thuc wanted to go back to where he had come from, but the chariot had changed into a phoenix, and the fabulous bird, flying away, disappeared into the sky. Tu Thuc opened the letter and read these words:
Among the clouds a phoenix love began, That past union is already over. Who, over the seas, searches for the Immortals? Little hope is there of a future meeting.
Then he realized that the parting was forever. Later on, wearing a light cloak and a conical hat, Tu Thuc went up the Yellow Mountain in the Nong Cong district in Thanh Hoa province. He never came back. No one knows whether he went back to the kingdom of the Fairies or whether he was lost in the mountain.
Original Story by Nguyễn Dữ
English Narration by Phạm Duy Khiêm